Nền kinh tế hoạt động như thế nào

Nền kinh tế hoạt động như thế nào?

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ in thêm tiền hỗ trợ sau Covid ? Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất ? Tổng thống Mỹ Biden đề xuất tăng thuế cho người giàu? Vì sao lại có những chính sách này và tác động của chúng đến ta ra sao? Nếu lãi suất…


Cục Dự trữ Liên bang Mỹ in thêm tiền hỗ trợ sau Covid ?

Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất ?

Tổng thống Mỹ Biden đề xuất tăng thuế cho người giàu?

Vì sao lại có những chính sách này và tác động của chúng đến ta ra sao? Nếu lãi suất giảm thì kinh tế đang ở giai đoạn nào của chu kỳ?

Tuy rằng chủ đề này khá khô khan, việc hiểu cơ chế hoạt động của nền kinh tế sẽ giúp chúng ta có sự chuẩn bị và biết cần phải làm gì để tự bảo vệ bản thân trước những thay đổi khó lường của thế giới. Với những nhà đầu tư thì điều này lại càng cần thiết hơn nữa để củng cố nhận định đầu tư cho bản thân – liệu đây có phải thời điểm tốt để đầu tư bất động sản, mua cổ phiếu, gửi ngân hàng hay tăng cường giữ tiền mặt…

Những đối tượng chính và vai trò của họ trong nền kinh tế

  1. Người mua & Người bán: hai phía của một giao dịch
  2. Chính phủ: chịu trách nhiệm thu thuế và quản lý chi tiêu chính phủ (cung cấp hàng hóa công cộng như đường sá, trường học…)
  3. Ngân hàng Trung ương: điều chỉnh lượng tiền lưu thông trong thị trường thông qua hai công cụ chính: (1) lãi suất và (2) in tiền.

Bản chất của nền kinh tế bắt nguồn từ hoạt động giao dịch nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng giữa người mua và người bán.

Vậy hoạt động giao dịch bắt nguồn từ đâu?

Nguồn gốc của hoạt động “giao dịch” và “tín dụng”

Khi loài người mới xuất hiện, nhu cầu cơ bản hàng ngày chỉ là làm sao để có đủ cái ăn hàng ngày. Trải qua suốt nhiều năm tháng, con người tập hợp lại với nhau thành những nhóm du mục, di chuyển khắp nơi để tìm ra nơi có đủ nước uống, thức ăn, xây dựng làng mạc và ổn định.

Sau khi ổn định, đến một lúc nào đó, nguồn cung vật phẩm (thức ăn, gia súc, áo lông thú…) trở nên dư thừa. Ở mỗi vùng đất khác nhau, tùy thuộc vào tính chất địa lý như thời tiết, địa hình mà những loại vật phẩm dư thừa sẽ khác nhau – chẳng hạn những nơi có khí hậu ôn hòa sẽ có nhiều rau củ quả, những nơi có địa hình bằng phẳng thì lại có điều kiện chăn nuôi nhiều gia súc, gia cầm… Từ đó, hoạt động giao thương diễn ra, họ trao đổi hàng hóa để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau. Lúc này, hoạt động giao thương là mua đứt bán đoạn, anh cho đi một vật phẩm thì nhận lại một vật phẩm khác ngay lập tức.

Giao dịch xuất hiện nhằm đáp ứng nhu cầu nhiều loại vật phẩm khác nhau của con người (giải quyết vấn đề sự đa dạng của vật phẩm).

Thế nhưng theo thời gian, khi nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, sẽ có trường hợp người khác có thứ anh cần nhưng anh lại không có thứ họ cần. Và thế là tiền tệ ra đời như một thước đo chung cho mọi vật phẩm và đóng vai trò trung gian cho mọi giao dịch. Lúc này, vấn đề khác biệt trong nhu cầu khi giao thương đã được giải quyết (khác biệt về loại vật phẩm khi giao thường).

Vấn đề tiếp theo xảy ra đó là sự khác biệt về thời điểm đáp ứng nhu cầu. Anh cần thức ăn ngay bây giờ, nhưng lại không đủ tiền để trao đổi. Và thế là tín dụng ra đời – nhu cầu của anh được đáp ứng ngay lúc này với lời cam kết rằng bồi hoàn sẽ được thực hiện trong tương lai, với một con số lãi suất nhất định.

Tín dụng được sinh ra để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mọi lúc, bất chấp khả năng chi trả (giải quyết vấn đề thời điểm cần đáp ứng nhu cầu).

Tín dụng – đó là thứ có tác động rất lớn đến cách hoạt động của nền kinh tế mà chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn sau đây.

Tác động của “tín dụng” lên nền kinh tế

Sự khác nhau về thời điểm đáp ứng nhu cầu bởi tín dụng tạo nên chu kỳ kinh tế theo hình quả đồi như bên dưới:

Chu kỳ lên xuống của kinh tế

Nguồn: How the economic machine works

Như các bạn có thể thấy ở trên, tại thời điểm vay tiền, bạn rất giàu có và có thể mua được nhiều thứ, hình thành vùng đỉnh đồi. Sau một khoảng thời gian, khi nợ đến hạn thanh toán, khả năng chi tiêu giảm xuống và tạo thành vùng thung lũng.

Kinh tế được thúc đẩy bởi hoạt động tiêu dùng bởi chi tiêu của người này là thu nhập của người kia.

Nếu giao dịch trao đổi hàng hóa trước đây là giữa người mua và người bán thông thường, thì tín dụng là giao dịch giữa người cho vay và người đi vay. Nó cho phép người đi vay mua được những thứ ngoài khả năng chi trả tại thời điểm hiện tại của họ (chẳng hạn như mua nhà, mua xe – những thứ có giá trị lớn cần thời gian tích lũy tiền bạc). Ngược lại, người đi vay phải cam kết trả lại số tiền đã vay cùng với phần lãi suất đã được thống nhất với người cho vay. Lúc này tín dụng được thể hiện dưới dạng “Nợ”.

Lúc này mức chi tiêu sinh ra trong thị trường thực chất là chi tiêu ảo khi nó được đảm bảo bằng số tiền trong tương lai và do đó, ở thời điểm giao dịch, giá trị tiêu dùng là lớn hơn thu nhập.

Lãi suất là công cụ điều chỉnh Lạm phát/ Giảm phát

Khi nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng, giá cả hàng hóa cũng tăng theo (lạm phát). Hậu quả là lãi suất cũng cao hơn để bắt kịp với tốc độ lạm phát. Lãi suất tăng khiến áp lực trả nợ của người đi vay cũng nhiều hơn → giảm chi tiêu → bắt đầu chu kỳ đi xuống của nền kinh tế. Lúc này Giảm phát sẽ xuất ra.

Đây là trạng thái kinh tế Chính phủ không hề mong muốn khi một lần nữa, chi tiêu của người này là thu nhập của người kia và do đó, khi người dân giảm tiêu dùng thì nền kinh tế cũng không thể đi lên được.

Lúc này Ngân hàng Trung ương sẽ giảm lãi suất để kiểm soát lạm phát, thúc đẩy chi tiêu.

Ở “đỉnh đồi”, lạm phát và lãi suất cao, chi tiêu giảm, kiềm hãm sự phát triển của kinh tế. Lúc này Chính phủ sẽ giảm lãi suất.

Với can thiệp giảm lãi suất của Ngân hàng trung ương, giá hàng hóa được điều chỉnh, áp lực trả nợ giảm và người dân tiếp tục vay để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của bản thân. Lúc này Nợ và Thu nhập đi lên song song với nhau. Giả sử bạn vay tiền để mua nhà, giá nhà vẫn tiếp tục tăng kéo theo thu nhập tăng ⇒ Nợ và Thu nhập bù trừ cho nhau và không có rủi ro nào cho cả Người đi vay và Người cho vay.

Cán cân giữa Nợ và Thu nhập

Nguồn: How the economic machine works

Tuy nhiên, Ngân hàng trung ương không thể giảm lãi suất mãi và đến một lúc nào đó, thu nhập không thể tăng kịp với Nợ và thế là cán cân nghiêng về phía Nợ. Lúc này bắt buộc phải giảm chi tiêu và khi người này chi tiêu giảm, thu nhập của người kia cũng giảm ⇒ Nền kinh tế tập trung vào việc giảm nợ.

Chi tiêu ít hơn → Thu nhập ít hơn → Tài sản giảm → Vay ít hơn → Chi tiêu ít hơn. Vòng tròn kéo dài tạo nên chu kỳ đi xuống và nền kinh tế rơi vào suy thoái.

Khi lãi suất không thể xuống thấp hơn được nữa, Nợ trở nên quá lớn so với Thu nhập → Kinh tế suy thoái.

Lúc này, một trong bốn biện pháp sau được áp dụng.

Bốn biện pháp được áp dụng khi không thể tiếp tục điều chỉnh lãi suất

  1. Doanh nghiệp và Chính phủ cắt giảm chi tiêu
  2. Tái cơ cấu nợ: chấp nhận Người đi vay không thể trả được hoàn toàn số nợ, cho phép họ trả ít hơn hoặc kéo dài thời hạn trả nợ.
  3. Phân phối lại tài sản từ người giàu sang người nghèo
  4. In thêm tiền

Công cụ thứ nhất: Cắt giảm chi tiêu

Chúng ta kỳ vọng rằng số tiền tiết kiệm được khi chi tiêu ít hơn sẽ được dùng để trả bớt nợ → cán cân giữa Nợ và Thu nhập được cân bằng. Thế nhưng trong thực tế, khi tiêu dùng ít hơn đồng nghĩa thu nhập cũng ít hơn. Lúc này tốc độ giảm của Thu nhập sẽ nhanh hơn tốc độ giảm của Nợ → cán cân tiếp tục nghiêng về phía Nợ và vấn đề không được xử lý.

Kết quả: kinh tế giảm phát – doanh nghiệp phải cắt giảm nhân sự, tỉ lệ thất nghiệp tăng vọt

Công cụ thứ hai: Tái cơ cấu nợ

Người cho vay (đại diện là ngân hàng) chấp nhận việc thu lại được khoản Nợ chút nào hay chút nấy và Nợ sẽ giảm trên cán cân. Tuy nhiên, khi áp lực trả nợ nhiều hơn khiến người bán nhiều hơn → giá trị tài sản đảm bảo giảm khiến cho Thu nhập cũng giảm theo. 

Kết quả: giảm phát xảy ra, thu nhập vẫn thấp hơn Nợ trên cán cân.

Lúc này, thu nhập giảm, tỉ lệ thất nghiệp cao gây áp lực lên Chính phủ. Chính phủ phải đồng thời chi tiền trợ cấp thất nghiệp và thực hiện các chương trình đẩy mạnh tiêu dùng trong xã hội. Vậy thì Chính phủ có thể lấy tiền từ đâu? – từ (1) tiền thuế hoặc (2) vay tiền.

Do đó, công cụ thứ ba: Chính phủ sẽ tăng thu thuế từ người giàu.

Đây là lý do chúng ta thường nghe đến chuyện tăng thuế với người giàu trên tin tức. Bất lợi của biện pháp này đó là sẽ gây ra sự bất mãn trong xã hội, dẫn đến nhiều hành vi bạo lực.

Vậy nên, công cụ thứ tư sẽ được áp dụng – Ngân hàng Trung ương bơm thêm tiền vào thị trường

Ngân hàng Trung ường tiến hành bơm tiền vào thị trường bắng cách mua các tài sản tài chính như trái phiếu chính phủ hoặc cổ phiếu. Sau đó Chính phủ sẽ dùng tiền này để thực hiện các chương trình thúc đẩy kinh tế.

Kết quả: cách này dễ thực hiện nhưng làm lạm phát tăng cao.

Vậy chúng ta có thể thấy với ba giải pháp đầu tiên, giảm phát sẽ xuất hiện trong khi giải pháp thứ tư sẽ gây ra lạm phát. Chính phủ và Ngân hàng trung ương cần phối hợp chặt chẽ cả bốn giải pháp để cân bằng nền kinh tế. Nếu sự cân bằng này được duy trì, nền kinh tế sẽ đi xuống với động lực vừa đủ, kinh tế tăng trưởng chậm nhưng nợ cũng giảm. Khi cán cân giữa Nợ và Thu nhập được cần bằng đủ lâu, người cho vay sẵn sàng cho vay, người đi vay có đủ thu nhập để trả nợ, và nền kinh tế lại bắt đầu một chu kỳ đi lên mới.

Tóm lại:

(1) Sự khác biệt ở thời điểm thỏa mãn nhu cầu của tín dụng tạo nên mô hình đỉnh đồi của nền kinh tế (đi lên và đi xuống như tàu lượn siêu tốc).

(2) Tiêu dùng là hoạt động chính thúc đẩy kinh tế khi chi tiêu của người này là thu nhập của người kia.

(3) Trong ngắn hạn, lãi suất là công cụ của Ngân hàng trung ương để kiểm soát lạm phát.

(4) Thời kỳ đi lên hay đi xuống của nền kinh tế phụ thuộc vào bên nào sẽ chiếm ưu thế trên cán cân giữa Nợ và Thu nhập. Kinh tế bắt đầu giai đoạn Suy thoái đi xuống khi phần Nợ tăng nhanh hơn Thu nhập.

(5) Để cân bằng Nợ và Thu nhập trên cán cân kinh tế, Chính phủ và Ngân hàng trung ương cần sử dụng kết hợp bốn giải pháp: (1) Giảm chi tiêu; (2) Tái cơ cấu nợ; (3) Phân bổ tài sản từ người giàu sang người nghèo và (4) In thêm tiền.


Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *